Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2001 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định như sau:
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền ban hành Hiến pháp và Luật.
Hiến pháp là văn bản luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, là nền tảng, cơ sở để ban hành các luật và văn bản dưới luật. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất của xã hội: Chế độ chính trị; chế độ kinh tế, văn hóa xã hội; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,…
Luật, đạo luật, bộ luật là những văn bản có hiệu lực pháp lý sau Hiến pháp, cụ thể hóa Hiến pháp. Mỗi đạo luật điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội. Mọi văn bản trái Hiến pháp và luật đều bị đình chỉ, sửa đổi hoặc bãi bỏ theo quy định của pháp luật. Ngoài Hiến pháp và luật Quốc hội còn thông qua các nghị quyết.
- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền ban hành pháp lệnh, nghị quyết căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Pháp lệnh quy định về những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành thành luật.
- Chủ tịch nước có quyền ban hành lệnh, quyết định, (lệnh công bố luật, lệnh giới nghiêm, lệnh đại xá, đặc xá…) căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Chính phủ ban hành nghị quyết, nghị định căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
- Thủ tướng Chính phủ có quyền ban hành các quyết định, chỉ thị căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
- Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư, căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
- Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
- Hội đồng nhân dân các cấp ban hành nghị quyết để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực thuộc địa phương căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
- Uỷ ban nhân dân các cấp có quyền ban hành quyết định, chỉ thị căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.